Bộ Y tế cho biết đậu mùa khỉ lây từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp với tổn thương da, dịch cơ thể, qua quan hệ tình dục, giọt bắn đường hô hấp, vật dụng của người bị nhiễm và lây truyền từ mẹ sang con.
Báo Sức Khỏe & Đời Sống thông tin, ngày 29/7, bộ Y tế ban hành Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh đậu mùa khỉ ở người. Theo đó, đậu mùa khỉ (monkey pox) là bệnh truyền nhiễm cấp tính, có khả năng gây dịch, do virus đậu mùa khỉ gây ra.
Bệnh này có nguồn gốc từ châu Phi, lây truyền từ động vật sang người và từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp với tổn thương da, dịch cơ thể, qua quan hệ tình dục, giọt bắn đường hô hấp, vật dụng của người bị nhiễm và lây truyền từ mẹ sang con.
Các triệu chứng chính của bệnh gồm sốt, phát ban dạng phỏng nước và sưng hạch ngoại vi, có thể gây biến chứng nặng dẫn tới tử vong.
Các giai đoạn của bệnh đậu mùa khỉ
Thời gian ủ bệnh: 6 - 13 ngày (dao động từ 5 - 21 ngày): Người nhiễm không có triệu chứng và không có khả năng lây nhiễm.
Giai đoạn khởi phát: từ 1 - 5 ngày với các triệu chứng chính là sốt và nổi hạch ngoại vi toàn thân. Kèm theo người bệnh có thể có biểu hiện đau đầu, mệt mỏi, ớn lạnh, đau họng, đau cơ. Virus có thể lây sang người khác từ giai đoạn này.
Giai đoạn toàn phát: đặc trưng bởi sự xuất hiện của các ban trên da, thường gặp sau sốt từ 1 - 3 ngày, với tính chất sau:
- Vị trí: Phát ban có xu hướng ly tâm, gặp nhiều trên mặt, lòng bàn tay, lòng bàn chân, ngoài ra còn có thể gặp ở miệng, mắt, cơ quan sinh dục.
- Tiến triển ban: Tuần tự từ dát (tổn thương có nền phẳng) đến sẩn (tổn thương cứng hơi nhô cao), sau đó thành mụn nước (tổn thương chứa đầy dịch trong), mụn mủ (tổn thương chứa đầy dịch vàng), đóng vảy khô, bong tróc và có thể để lại sẹo.
- Kích thước tổn thương da: Trung bình từ 0,5 – 1 cm.
- Số lượng tổn thương da trên một người có thể từ vài nốt cho đến dày đặc. Trường hợp nghiêm trọng các tổn thương có thể liên kết với nhau thành các mảng tổn thương da lớn.
Giai đoạn hồi phục: Các triệu chứng của bệnh đậu mùa khỉ có thể kéo dài từ 2 - 4 tuần rồi tự khỏi. Người bệnh hết các triệu chứng lâm sàng, các sẹo trên da có thể ảnh hưởng đến thẩm mỹ và không còn nguy cơ lây nhiễm cho người khác.
Đậu mùa khỉ lây từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp với tổn thương da, dịch cơ thể, qua quan hệ tình dục, giọt bắn đường hô hấp, vật dụng của người bị nhiễm và lây truyền từ mẹ sang con. Ảnh minh họa
Phân loại ca bệnh đậu mùa khỉ như thế nào?
Theo bộ Y tế, bệnh đậu mùa khỉ được chia thành 3 thể gồm thể không triệu chứng, thể nhẹ và thể nặng, cụ thể:
Thể không triệu chứng: Người nhiễm virus đậu mùa khỉ không có bất kể triệu chứng lâm sàng nào.
Thể nhẹ: Các triệu chứng thường hết sau 2 đến 4 tuần mà không cần bất kỳ biện pháp điều trị đặc hiệu nào.
Thể nặng: thường gặp trên nhóm đối tượng nguy cơ cao (phụ nữ mang thai, người cao tuổi, trẻ em, người mắc bệnh lý nền, suy giảm miễn dịch,...), có thể dẫn tới tử vong, thường từ tuần thứ 2 của bệnh. Người bệnh có thể gặp tình trạng nhiễm khuẩn da, với các biểu hiện sốt kéo dài, dịch nốt phỏng đục hoặc nốt phỏng bị vỡ chảy dịch đục.
Một số có thể bị viêm phổi (ho, tức ngực, khó thở), viêm não (ý thức suy giảm, co giật, lú lẫn, hôn mê), nhiễm khuẩn huyết (sốt kéo dài, tổn thương các cơ quan phủ tạng).
Cũng tại hướng dẫn nói trên, bộ Y tế cho biết ca bệnh nghi ngờ gồm 2 trường hợp sau:
- Ca bệnh có một hoặc nhiều yếu tố dịch tễ:
+ Trong vòng 21 ngày trước khi khởi phát triệu chứng, có tiếp xúc với trường hợp bệnh xác định hoặc trường hợp bệnh có thể, thông qua tiếp xúc vật lý trực tiếp với da hoặc tổn thương da (bao gồm cả quan hệ tình dục), hoặc tiếp xúc với các vật dụng bị ô nhiễm như quần áo, giường, đồ cùng cá nhân của người bệnh.
+ Có tiền sử đi du lịch tới các quốc gia có lưu hành bệnh đậu mùa khỉ trong vòng 21 ngày trước khi khởi phát triệu chứng.
- Có bệnh cảnh lâm sàng nghi bệnh đậu mùa khỉ
Trong khi đó, ca bệnh xác định là trường hợp có kết quả xét nghiệm sinh học phân tử dương tính với virus đậu mùa khỉ. Dựa trên triệu chứng sốt, phát ban và hạch to, cần chẩn đoán phân biệt bệnh đậu mùa khỉ với bệnh đậu mùa, thuỷ đậu, herpes lan tỏa và tay chân miệng.
Ban của bệnh đậu mùa khỉ khác các bệnh khác ra sao?
- Đậu mùa khỉ: Ban có xu hướng ly tâm, gặp nhiều trên mặt, lòng bàn tay, lòng bàn chân. Có thể gặp ở niêm mạc mắt, miệng. Ban xuất hiện cùng lứa tuổi, cùng thời điểm; nốt phỏng nước đơn lẻ hoặc có thể tạo thành đám tổn thương trên da.
- Đậu mùa: Ban theo trình tự mặt - bàn tay, cẳng tay - thân mình, xuất hiện sau 2-3 ngày đầu.
- Thủy đậu: Ban xuất hiện đầu tiên trên mặt và thân, nhanh chóng lan khắp ra cơ thể. Ban xuất hiện đa lứa tuổi, thời gian khác nhau.
- Tay chân miệng: Loét miệng, phát ban trên da ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông. Ban xuất hiện đa lứa tuổi, một số phát ban không rõ ràng hoặc chỉ loét miệng.
- Herpes lan tỏa: Thường xuất hiện vùng niêm mạc miệng, sinh dục sau đó nhanh chóng lan ra toàn thân. Các mụn nước tập trung thành chùm, đau rát, nhanh vỡ.
So với các bệnh còn lại, ban trong bệnh đậu mùa khỉ tiến triển chậm. Bên cạnh đó, ban của bệnh đậu mùa khỉ cũng tồn tại lâu hơn, từ 2-4 tuần, trong khi ban thủy đậu sẽ biến mất sau 1-2 tuần, ban của tay chân miệng chỉ tồn tại dưới 7 ngày còn ban Herpes lan tỏa nhanh chóng vỡ sau 3-4 ngày.
Kích thước ban của đậu mùa khỉ và thủy đậu đều từ 0,5 – 1 cm, trong khi ban của tay chân miệng hay Herpes lan toả nhỏ hơn, chỉ 0,2 – 0,3 cm.
Điểm chung của các bệnh này, trừ Herpes lan tỏa, là người bệnh đều có biểu hiện sốt. Một số biểu hiện khác cũng được nêu trong chẩn đoán phân biệt gồm người mắc đậu mùa khỉ có nổi hạch ngoại vi toàn thân, trong khi các bệnh còn lại người bệnh có mệt mỏi, chán ăn.
Bệnh nhân đậu mùa hay tay chân miệng bị tiêu chảy, đau người, đau họng, còn bệnh nhân Herpes lan tỏa còn sưng hạch phụ cận. Do có phát ban, các bệnh trên có thể để lại sẹo rỗ, vết thâm.
Điều trị bệnh đậu mùa khỉ như thế nào?
VietNamNet dẫn thông tin trong hướng dẫn của bộ Y tế cho biết các trường hợp nghi mắc đậu mùa khỉ hay xác định mắc bệnh được giám sát và cách ly tại cơ sở y tế theo hướng dẫn của bộ Y tế.
Người bệnh được điều trị triệu chứng là chủ yếu như hạ sốt, giảm đau, chăm sóc tổn thương da, mắt, miệng. Bệnh nhân cũng cần được đảm bảo dinh dưỡng, cân bằng nước điện giải và hỗ trợ tâm lý.
Với các trường hợp nặng và cơ địa đặc biệt (trẻ sơ sinh, người cao tuổi, người bị suy giảm miễn dịch,...), bác sĩ chỉ định sử dụng thuốc điều trị đặc hiệu theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới và các quy định của Việt Nam.
Bệnh nhân thể nhẹ cần theo dõi và phát hiện sớm các biến chứng nếu có như viêm phổi, nhiễm khuẩn da, nhiễm khuẩn huyết, viêm não... để điều trị ở buồng cách ly tại khoa hồi sức. Bệnh nhân thể nặng cần điều trị ở buồng cách ly tại khoa hồi sức, điều trị biến chứng (nếu có) theo các phác đồ đã ban hành.
Theo bộ Y tế, y tế xã/phường, quận/huyện sẽ điều trị ca bệnh không triệu chứng, ca bệnh nhẹ có các triệu chứng thông thường của bệnh. Trong khi đó, tuyến tỉnh, trung ương sẽ tiếp nhận ca bệnh nặng hoặc có nguy cơ trở nặng (trẻ sơ sinh, người bị suy giảm miễn dịch, người cao tuổi, bệnh nền, phụ nữ mang thai), ca bệnh có biến chứng nặng.
Các dấu hiệu nguy hiểm của bệnh cần theo dõi, xem xét chuyển tuyến điều trị gồm giảm thị lực; giảm ý thức, hôn mê, co giật; suy hô hấp; chảy máu, giảm số lượng nước tiểu; các dấu hiệu của nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn.
Sau khi được cách ly tối thiểu 14 ngày, đồng thời hết các triệu chứng lâm sàng như không xuất hiện tổn thương trên da mới tối thiểu 48 giờ và các tổn thương cũ đã đóng vẩy, bệnh nhân sẽ được xuất viện./.
Nguồn: Đinh Kim (T/h)/doisongphapluat.com